Thiết kế và phát triển Hawker Sea Fury

Hawker Fury

Chiếc Hawker Fury là kiểu kế thừa mang tính tiến hóa của các kiểu máy bay tiêm kích và tiêm kích-ném bom Hawker TyphoonTempest rất thành công trong Thế Chiến II. Chiếc Fury được thiết kế vào năm 1942 bởi Sidney Camm, nhà thiết kế nổi tiếng của hãng Hawker, nhằm đáp ứng một yêu cầu của Không quân Hoàng gia Anh về một kiểu thay thế nhẹ cân hơn cho chiếc Tempest II. Được phát triển như là kiểu "Tiêm kích Tempest hạng nhẹ", nó sử dụng phần ngoài của kiểu cánh nữa-elip cải tiến dùng trên chiếc Tempest, được ghép tán lại với nhau tại giữa thân. Bản thân khung thân máy bay tương tự như chiếc Tempest, nhưng hoàn toàn thân đơn với buồng lái cao hơn nhằm có tầm nhìn tốt hơn.[1] Bộ Hàng không Anh đã chịu ấn tượng về kiểu thiết kế này nên đã đề ra Bản tính năng F.2/43 dựa trên kiểu được thiết kế.[2]

Phiên bản hải quân Sea Fury

Vào năm 1943, thiết kế được cải tiến nhằm đáp ứng một yêu cầu (N.7/43) của Hải quân Hoàng gia về một kiểu máy bay tiêm kích hoạt động trên tàu sân bay. Boulton-Paul Aircraft được ủy nhiệm thực hiện cải tiến trong khi Hawker tiếp tục công việc trên mẫu thiết kế cho Không quân Hoàng gia. Chiếc Sea Fury nguyên mẫu thực hiện chuyến bay đầu tiên ngày 21 tháng 2 năm 1945, được trang bị động cơ Bristol Centaurus XII. Chiếc nguyên mẫu đầu tiên có móc hãm kiểu "stinger" để hãm khi hạ cánh trên tàu sân bay, nhưng không có cánh xếp để chứa trong kho chứa.[2] Chiếc nguyên mẫu thứ hai trang bị động cơ Centaurus XV quay một bộ cánh quạt mới Rotol năm cánh, và được chế tạo với cánh xếp. Yêu cầu đặc tả N.7/43 được biến đổi thành N.22/43, giờ đây đại diện cho một đơn đặt hàng 200 máy bay, trong đó 100 chiếc sẽ do Boulton-Paul chế tạo.

Cả hai kiểu nguyên mẫu đang được thử nghiệm hạ cánh trên tàu sân bay khi Nhật Bản đầu hàng vào năm 1945, đưa đến việc hủy bỏ sợ phát triển phiên bản Fury hoạt động trên bộ; nhưng công việc trên phiên bản Sea Fury dành cho hải quân được tiếp tục. Đơn đặt hàng ban đầu theo bản tiêu chuẩn N.22/43 được giảm xuống còn 100 máy bay, và thỏa thuận với Boulton-Paul cũng bị hủy bỏ. Kiểu sản xuất đầu tiên, chiếc Sea Fury F X (Fighter, Mark X), cất cánh vào tháng 9 năm 1946. Một số vấn đề nảy sinh do móc hãm bị hư hỏng khi hạ cánh trên tàu sân bay; và sau những cải tiến, chiếc máy bay được chấp thuận để hoạt động trên tàu sân bay vào mùa Xuân năm 1947.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hawker Sea Fury http://1000aircraftphotos.com/Contributions/Pippin... http://1000aircraftphotos.com/Contributions/Pippin... http://www.kotfsc.com/aviation/fury.htm http://www.unlimitedair.com/Hawker_Sea_Fury_Histor... http://www.fleetairarmarchive.net/aircraft/Seafury... http://www.vectorsite.net/avcfury.html http://www.acig.org/artman/publish/article_306.sht... https://web.archive.org/web/20090210040132/http://... https://web.archive.org/web/20160827142131/http://... https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Hawker...